Chủ tịch Fed Jerome Powell phát đi thông điệp cứng rắn về việc chống lạm phát, đồng thời cảnh báo rằng NHTW sẽ tiếp tục nâng lãi suất ngay cả khi điều này sẽ làm tổn thương cho nền kinh tế Mỹ.
Theo đó, ông khẳng định FED sẽ “sử dụng các công cụ một cách triệt để” để đối phó với lạm phát vẫn đang ở mức cao nhất trong hơn 40 năm.

Bài phát biểu của ông Jerome Powell
FED đã nâng lãi suất liên tiếp 4 lần với tổng cộng 2.25 điểm phần trăm trong năm nay. Tuy nhiên ông Powell cho biết vẫn chưa phải là lúc để ngừng nâng mặc dù lãi suất chuẩn có lẽ đã ở quanh phạm vi trung lập – tức không kích thích nhưng cũng không kìm hãm tăng trưởng.
“Lãi suất cao hơn, tăng trưởng chậm hơn và các điều kiện trên thị trường lao động suy yếu sẽ kéo giảm lạm phát. Tuy nhiên, chúng cũng mang lại một số đau đớn cho hộ gia đình và doanh nghiệp”, ông nói trong bài phát biểu chuẩn bị từ trước. “Đây là cái giá của việc giảm lạm phát. Tuy nhiên, việc không thể khôi phục lại sự ổn định về giá cả sẽ gây ra nỗi đau còn lớn hơn thế nhiều”.
Phân tích chi tiết
Các nhận định trên được đưa ra sau khi xuất hiện các dấu hiệu cho thấy lạm phát đã đạt đỉnh, nhưng chưa có tín hiệu sẽ giảm đáng kể.
Hai chỉ số theo dõi lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) dường như không thay đổi quá nhiều trong tháng 7/2022; mặc dù giá năng lượng đã giảm mạnh.
Cùng lúc đó, một số lĩnh vực trong nền kinh tế đang giảm tốc. Đáng chú ý nhất là thị trường nhà ở đang giảm rất mạnh và các chuyên gia kinh tế cho rằng đà tăng về số lượng việc làm có khả năng hạ nhiệt.
Tuy nhiên, ông Powell cho biết Fed không chỉ chú ý tới dữ liệu của 1 hoặc 2 tháng, mà còn xa hơn thế. Họ sẽ tiếp tục nâng lãi suất cho tới khi lạm phát về gần hơn với mục tiêu dài hạn 2%.
“Chúng tôi dự định thắt chặt chính sách tiền tệ đến mức đủ để đưa lạm phát trở lại 2%”, ông nói. Nhìn về tương lai, vị lãnh đạo Fed nói thêm rằng “để khôi phục ổn định giá cả, NHTW có thể cần phải duy trì lập trường chính sách theo hướng kìm hãm (restrictive policy) trong một thời gian. Lịch sử đã đưa ra nhiều cảnh báo về việc nới lỏng chính sách quá sớm”.
Nền kinh tế vừa trải qua hai quý suy giảm GDP liên tiếp – tức đã suy thoái về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, ông Powell và hầu hết các nhà kinh tế khác nhận thấy nền kinh tế vẫn mạnh và chỉ giảm tốc.
Jeffrey Roach, Chuyên gia kinh tế trưởng tại LPL Financial, cho biết: “Về cơ bản, Powell nói rõ rằng ngay bây giờ, chống lại lạm phát quan trọng hơn là hỗ trợ tăng trưởng”.
Nói thẳng vào trọng tâm
Bài phát biểu của ông Powell ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề. Trước đây, các lãnh đạo của Fed – bao gồm cả ông Powell – thường tận dụng hội nghị Jackson Hole để nói rõ hơn về sự chuyển dịch chính sách. Tuy nhiên, bài phát biểu của ông Powell lần này chỉ kéo dài trong vòng 8 phút.
Trước khi bắt đầu bài phát biểu, ông lưu ý rằng “bài phát biểu sẽ ngắn hơn, tập trung hơn và thông điệp cũng rõ ràng hơn”.
“Ổn định giá cả là trách nhiệm của Fed và đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế chúng ta”,
Thị trường đang chờ đợi những manh mối về quyết định lãi suất tại cuộc họp tháng 9 của Fed. Ông Powell cho biết quyết định về mức độ nâng lãi suất “sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào dữ liệu sắp tới và triển vọng kinh tế ra sao. Khi lập trường chính sách tiền tệ bị thắt chặt hơn nữa, việc giảm nhịp độ nâng lãi suất sẽ là hợp lý ở một thời điểm nào đó”.
Các nhà giao dịch hiện đang phân vân giữa khả năng nâng +0.5% và +0.75%.
Phản ứng thị trường tài chính

- Chỉ số Dow Jones xuống hơn 3%.
- Chỉ số S&P 500 xuống hơn 3.3%.
- Thị trường Vàng giảm hơn 1%.
- Thị trường crypto cũng đỏ lửa với đại diện Bitcoin khoảng 7%. Đưa Bitcoin về quanh vùng giá $20.000.
- Chỉ số DXY bật tăng.
Để tối ưu hóa chi phí trong giao dịch Forex, các bạn có thể đăng ký sàn Exness với link giới thiệu sau để nhận lại hoàn phí giao dịch.
BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ
Lịch sử có lặp lại….?
Fed cũng dùng một bài học từ quá khứ để dẫn dắt cho chính sách hiện tại. Cụ thể hơn, ông Powell cho biết lạm phát cao hồi 40 năm trước mang lại cho Fed 3 bài học ở thời điểm này:
- Các NHTW như Fed có trách nhiệm kiểm soát lạm phát.
- Kỳ vọng lạm phát rất quan trọng.
- “chúng ta phải tiếp tục hành động cho tới khi nhiệm vụ hoàn tất”.
Ông Powell lưu ý rằng việc Fed không hành động một cách quyết liệt trong thập niên 70 đã tạo ra vòng luẩn quẩn về kỳ vọng lạm phát và dẫn tới các đợt nâng lãi suất mạnh vào đầu thập niên 80. Trong trường hợp đó, cựu Chủ tịch Fed Paul Volcker đã phải đẩy nền kinh tế vào suy thoái để kéo giảm lạm phát.

Chủ tịch Powell cho biết việc kiểm soát kỳ vọng thật sự rất quan trọng nếu Fed không muốn rơi vào tình cảnh phải hành động như ông Volcker.
Vào đầu thập niên 80, “Fed cần phải chuyển chính sách tiền tệ sang phạm vi rất kìm hãm (very restrictive) trong một thời gian dài để kéo giảm lạm phát xuống mức thấp và ổn định. Sau đó, người dân đã quen với lạm phát thấp.
Về cơ bản, người dân thường ít chú ý tới lạm phát khi ở mức thấp, nhưng sẽ chú ý nhiều hơn khi lạm phát cao.
“Dĩ nhiên, lạm phát đang là tâm điểm chú ý của mọi người tại thời điểm này và đây là rủi ro lớn: Lạm phát cao càng kéo dài bao nhiêu, kỳ vọng lạm phát cao sẽ càng bám sâu vào tâm trí người dân bấy nhiêu”, ông nói.
Gần đây chúng ta nói rất nhiều về Fed vì các quyết định của Fed ảnh hưởng tới không chỉ kinh tế ở Hoa Kỳ, mà ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu vì kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất và USD là tiền dự trữ của thế giới hiện tại.
Chủ Tịch Fed thường nhắc tới Volcker… tại sao vậy?
Năm 1981, Hoa Kỳ đang ở giữa thời kỳ lạm phát cực cao hơn 10% lần thứ 2 trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Giá xăng tăng vọt; lãi suất mua nhà ngất ngưởng, khiến nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu không thể mua nhà. Thị trường việc làm cũng yếu, với tỷ lệ thất nghiệp trên 7%. Đất nước rơi vào khủng hoảng toàn diện.
Sau khi cuộc khủng hoảng kết thúc, hầu hết các nhà kinh tế học đều công nhận công lao của Paul Volcker-Chủ Tịch Cục Dự trữ Liên bang. Volcker đã kiểm soát lạm phát thông qua phương pháp bá đạo: Ông đã thiết kế hai cuộc suy thoái lớn, nhưng ngắn, để cắt giảm chi tiêu và buộc lạm phát giảm xuống. Vào cuối những năm 1980, lạm phát đang giảm dần và nền kinh tế bùng nổ trở lại.
Lạm phát tấn công nước Mỹ những năm 1970 như thế nào?
Lạm phát dao động một chút sau cuộc suy thoái ngắn vào năm 1970, nhưng sau đã tăng lên đến đỉnh cao, đầu tiên là vào năm 1974-75 và sau đó là vào cuối những năm 1970. Sau khi Volcker được bổ nhiệm vào năm 1979, lạm phát lên đến đỉnh điểm và sau đó giảm mạnh nhanh chóng. Nó chưa bao giờ vượt quá 4% hàng năm một lần nữa.
Trước năm 1965, lạm phát ổn định trong nhiều năm, dao động quanh mức hoặc dưới 2%. Nhưng vào khoảng thời gian đó, Tổng thống Lyndon Johnson và các đồng minh của ông trong Quốc hội bắt đầu thực hiện việc tăng chi tiêu lớn, như một phần của cuộc chiến chống đói nghèo và cuộc chiến ở Việt Nam.
Mặc dù một số khoản chi tiêu đó (đặc biệt là Medicare) được tài trợ bởi các loại thuế mới, nhưng phần lớn thì không. Điều đó có nghĩa là thâm hụt ngân sách cao hơn, chi tiêu tăng lên, vào thời điểm kinh tế tốt, dẫn đến giá cả tăng cao. Chính quyền Johnson không có ý định hạn chế chi tiêu; chiến tranh Việt Nam và chương trình chống đói nghèo của ông là những ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, lạm phát dần dần tăng cao hơn và cao hơn.
Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn dưới thời Richard Nixon. Chiến tranh Việt Nam vẫn diễn ra và rất tốn kém, và vào năm 1971, Nixon quyết định chấm dứt hệ thống “quy đổi vàng” lấy đô la.(Nền móng hình thành thị trường Forex cũng bắt đầu từ đây).
Năm 1973, mọi thứ lên đến mức khủng hoảng với lệnh cấm vận dầu mỏ của tổ chức OPEC đối với phương Tây như sự trừng phạt đối với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và các quốc gia khác dành cho Israel trong Chiến tranh Yom Kippur. Giá khí đốt gần như tăng gấp 4 lần trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1973 đến tháng 1 năm 1974, góp phần đẩy lạm phát tăng cao, và dẫn đến một cuộc suy thoái tương đối kéo dài kết thúc vào năm 1975.
Sau cuộc khủng hoảng đó, lạm phát đã ổn định gần mức 6-7% một thời gian ngắn – tuy vẫn cao, nhưng không phải là mức khủng hoảng. Nhưng lạm phát lại nhanh chóng tăng trở lại, một phần do giá năng lượng và lương thực tăng cao.
Đó là tình hình mà Volcker phải đối mặt.
Cú sốc Volcker là gì?
Trước khi Volcker nhậm chức Chủ tịch Fed vào ngày 6 tháng 8 năm 1979, Fed đã cố gắng tăng lãi suất từ từ với hy vọng điều chỉnh giá cả, nhưng không có kết quả. Volcker lúc đó là phó chủ tịch Fed, là một trong những người ủng hộ FOMC thúc đẩy tăng mạnh lãi suất. Khi chủ tịch FED, William Miller, được Tổng Thống Jimmy Carter bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Bộ Tài Chính, Tổng Thống Carter đã chỉ định Volcker là người kế nhiệm Miller.
Sau một vài mức tăng khiêm tốn trong tháng đầu tiên của nhiệm kỳ, Volcker đã triệu tập một cuộc họp bất ngờ vào ngày 6 tháng 10 năm 1979 và áp đặt Fed vào một chính sách tiền tệ mới và chặt chẽ hơn. Fed sẽ cho lãi suất tăng cao hơn tuyên bố sẽ điều chỉnh lại chính sách thường xuyên để đáp ứng với những thay đổi trong nguồn cung tiền.
Tháng đó, lãi suất của Fed được đặt ở mức 13,7%; đến tháng 4, nó đã tăng vọt 4 điểm lên 17,6% và có lúc gần 20% vào năm 1981. Lãi suất cao hơn nói chung làm giảm lạm phát bằng cách giảm chi tiêu, do đó làm chậm nền kinh tế và có thể dẫn đến thất nghiệp hàng loạt. Khi Fed tăng lãi suất, lãi suất của tất cả mọi thứ từ nợ thẻ tín dụng đến nợ mua nhà, cho đến các khoản vay kinh doanh đều tăng lên. Khi vay kinh doanh đắt hơn, các doanh nghiệp ký hợp đồng và chi tiêu ít hơn; khi các khoản nợ thế chấp đắt hơn, người ta mua nhà rẻ hơn; khi tỷ lệ thẻ tín dụng cao hơn, mọi người chi tiêu ít hơn. Kết quả là tổng chi tiêu ít hơn, và do đó lạm phát ít hơn, nhưng tăng trưởng cũng chậm hơn.

Phương pháp này đã mất hai lần thử để đạt được hiệu quả như mong muốn. Sự thắt chặt của Volcker đã làm chậm lại hoạt động kinh tế đến mức vào tháng 1 năm 1980, Hoa Kỳ rơi vào tình trạng suy thoái. Nhưng lãi suất của Fed thực sự bắt đầu giảm mạnh sau tháng 4, điều này đã hạn chế hiệu quả của các nỗ lực chống lạm phát của Fed.
Fed đã thắt chặt một lần nữa sau đó và gây ra một cuộc suy thoái khác vào tháng 7 năm 1981. Lần này tồi tệ hơn nhiều so với lần đầu tiên; trong khi tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh là 7,8% trong cuộc suy thoái năm 1980, tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh mới ở mức 10,8% vào tháng 12 năm 1982 trong cuộc suy thoái lần thứ 2 kéo dài 16 tháng. Để bạn có thể hình dung, % thất nghiệp này còn cao hơn so với thời kỳ đỉnh điểm của cuộc Đại suy thoái năm 2009. Trong suốt những năm 1980, chế độ chính sách này được gọi là “cú sốc Volcker”.
Khi Volcker rời nhiệm sở vào tháng 8 năm 1987, lạm phát đã giảm xuống 3,4% so với mức đỉnh 9,8% vào năm 1981. Lạm phát thấp liên tục đã trở thành tiêu chuẩn kể từ đó; Hoa Kỳ chưa bao giờ lạm phát trên 5% kể từ tháng 9 năm 1983 – cho đến năm 2022. Đây là lý do tại sao Chủ Tịch FED hiện tại, Jorome Powell hay nhắc tới Volcker, vì 40 năm qua, đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ lại đối đầu với lạm phát cao.
Đánh giá chính sách của Volcker
Đối với những người ngưỡng mộ thì Volcker là chủ tịch Fed thành công nhất trong lịch sử, một nhà hoạch định chính sách táo bạo, người đã đánh bại lạm phát bất chấp người khác nghĩ gì.
Nhưng chính sách này phải trả một cái giá khổng lồ khiến các nhà phê bình đặt câu hỏi liệu Volcker có thể đánh bại lạm phát theo cách nhân đạo hơn mà không gây ra mức thất nghiệp cao nhất kể từ cuộc Đại Khủng Hoảng hay không?
Hiện tại, nếu FED muốn theo chính sách Volcker thì Fed phải tăng lãi suất một cách cực mạnh và bất ngờ để tạo ra suy thoái kinh tế, nhưng đó không phải là quan điểm chính sách hiện tại của Fed. Vào tháng 6 và tháng 7, Fed đã ban hành 2 đợt tăng lãi suất lớn nhất trong 28 năm. Nhưng trong cuộc họp báo, Chủ tịch Fed, Jerome Powell đã làm rõ rằng FED không hy vọng gây ra suy thoái tài chính và hạ cánh an toàn vẫn là mục tiêu hàng đầu… Chúng ta cũng chỉ có thể tạm tin.
Theo CNBC, VOX, ThuanCapital
Powell chuyên kiểu dắt mũi dư luận
những cái fed nói mà làm theo thì chỉ có toang.
Cứ chờ nó nói xong rồi phải coi chart mới tính tiếp được
Từ đầu năm tới giờ có 5 lần tăng lãi suất tổng đã trên 3% rồi
dự là sắp vượt 4% tới đít rồi fen💢💢💢
chắc chắn là vậy, đầu 2023 chắc chạm 5% luôn
Vừa muốn kìm chế lạm phát mà không làm suy giảm tăng trưởng kinh tế là điều không thể.
Tuy nhiên Fed đã có nhiều kinh nghiệm sau các đợt khủng hoảng và theo tôi từ nay tới cuối năm có ít nhất 1 lần tăng lãi suất, có thể là 0.5% vào tháng 9.
Với mức lạm phát cao đạt đỉnh 40 năm qua mà không khéo lèo lái thì kinh tế Mỹ nói riêng và kinh tế thế giới rất dễ rơi vào đợt suy thoái nặng nề.
kinh tế thế giới rơi vào lạm phát và suy thoái là ko thể tránh, tiền in 2 năm qua ầm ầm dù có tăng lãi suất thì vẫn chỉ là để đối phó với lạm phát
thu tiền về thì kiểu gì cũng dẫn tới suy thoái, quan trọng là nó diễn ra trong bao lâu thôi
có thể nó sẽ nâng lên tầm 3.5~4% rồi mới dừng
vào downtrend là chắc chắn rồi, lại vài năm thị trường ảm đạm đi xuống dần thôi
chưa dừng đâu fen dự là lên 5% tới nơi rồi